Trong số những người đầu tiên đến Mỹ trong đợt một này đã có khoảng 125.000 người đến Mỹ để tị nạn. Đây là lần đầu tiên nước Mỹ đã tiếp nhận những người Việt Nam với số lượng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Sau đợt này còn nhiều đợt khác kế tiếp, nâng tổng sô người Việt tại Mỹ là 1.009.627 người, tính đến năm 2000. Đến nay thì phần lớn đã vào quốc tịch Mỹ, để trở thành người Mỹ gốc Việt.
Người Mỹ gốc Việt (tiếng Anh: Vietnamese American) là những người định cư tại Hoa Kỳ có nguồn gốc người Việt. Với tổng dân số được ước tính hơn 2.200.000 trong năm 2017, họ chiếm trên một nửa dân số Việt kiều trên thế giới.
Phần lớn người Việt di cư đến Hoa Kỳ kể từ sau tháng tư đen 30 1975, với những người nhập cư đầu tiên là những người tị nạn từ miền Nam Việt Nam được chính phủ Hoa Kỳ di tản. Tiếp theo là những thuyền nhân cũng từ miền nam VN vượt biên ra nước ngoài bằng đường biển, sau đó có thêm những người miền Bắc. Kể từ thập niên 1990, những người Việt định cư vào Hoa Kỳ chủ yếu là để đoàn tụ gia đình và những quân cán chính VNCH đi theo diện HO. Người Mỹ gốc Việt sau khi đến quê hương thứ hai đã bắt đầu hòa nhập vào xã hội Hoa Kỳ và trở thành một cộng đồng dân tộc thiểu số đáng kể tại quốc gia này.
Con số thống kê theo sở di trú , số người Việt 2,104,217 (2017). Mười tiểu bang đông dân gốc Việt nhất bao gồm: California (581,000); Texas (210,000); Washington (67,000); Florida (58,000); Virginia (54,000); Georgia (45,000); Massachusetts (43,000); Pennsylvania (39,000); New York (29,000); và Louisiana (28,000).
Những người tị nạn đầu tiên trên đất Mỹ họ không phải là người Việt đầu tiên trên mảnh đất này, trước họ còn có nhiều người đã đến Mỹ từ thế kỷ 19, mà chúng tôi muốn kể dưới đây.
Những người tị nạn đầu tiên trên đất Mỹ họ không phải là người Việt đầu tiên trên mảnh đất này, trước họ còn có nhiều người đã đến Mỹ từ thế kỷ 19, mà chúng tôi muốn kể dưới đây.
NGƯỜI VIỆT ĐẦU TIÊN TRÊN ĐẤT MỸ
(có tên là Trần Trọng Kiêm)
(có tên là Trần Trọng Kiêm)
Ông Trần Trọng Khiêm, là người VN đầu tiên trên đất Mỹ, sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể . Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về thành phố San Francisco và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại. Nguồn: https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nguoi-viet-nam-dau-tien-dat-chan-den-chau-my.html
Trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là từ ngữ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.
Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là từ ngữ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc).
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc).
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
Người Minh Hương cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương.
Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: “Gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về”, Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
Người Minh Hương cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương.
Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi Pháp xâm lược Việt Nam. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăng trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối:
“Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
“Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
Ghi công ông, hiện ở phường Long Bình, quận 9, Sài Gòn có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm nối phố Nguyễn Xiển với phố Mạc Hiển Tích.
Nguồn:https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nguoi-viet-nam-dau-tien-dat-chan-den-chau-my.html
BÙI VIỆN NHÀ NGOẠI GIAO ĐẦU TIÊN CỦA VN ĐẾN MỸ
Bùi Viện (1839 - 1878), hiệu Mạnh Dực, là một nhà cải cách, nhà ngoại giao của Việt Nam cuối thế kỷ 19, làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
Từ cửa biển Thuận An ở kinh đô Huế, Bùi Viện xuống thuyền ngược ra Bắc vào tháng 7 năm Quý Dậu (tháng 8 năm 1873) và 2 tháng sau thì đến Hương Cảng lúc đó đã là nhượng địa của nước Anh và là đầu mối giao thông nối châu Á với thế giới phương Tây. Tại đây Bùi Viện đã kết giao được với viên lãnh sự Hoa Kỳ nên 2 bên giao thiệp được và ông có ý sang Hoa Kỳ cầu viện. Được biết ý đồ của Bùi Viện, viên lãnh sự đã viết thư giới thiệu với một người ở Hoa Kỳ có khả năng giúp ông tiếp cận với nguyên thủ của quốc gia này. Ông lập tức quay trở về trình lên vua Tự Đức nhưng có giả thiết cho rằng nhà vua không mấy sốt sắng với đề nghị này nên ông đã mạo quốc thư và tự chế mũ áo hàng tam phẩm rồi qua Hương Cảng nhờ người bạn đầy uy thế ở Hoa Kỳ có khả năng giúp ông tiếp cận với tổng thống Hoa Kỳ.
Từ Trung Quốc, Bùi Viện đi qua Yokohama (Hoành Tân, Nhật Bản) để xem xét tình hình. Sau thời gian ngắn, Bùi Viện nhận thấy đất nước này mới chỉ mở cửa chưa đủ mạnh để giúp Việt Nam nên ông đã đáp tàu sang San Francisco (Hoa Kỳ), rồi lưu lại ở đó mất một năm vận động mới gặp được gặp Tổng thống Mỹ thứ 18 là Ulysses Grant (nhiệm kỳ 1869-1877. Lúc này Pháp và Mỹ đang xung đột nhau trong chiến tranh ở Mexico nên Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Tổng thống Mỹ bằng lòng giúp nhưng Bùi Viện khi đó lại sợ tội đã tự quyền và mạo quốc thư. Do vậy, ông đã nói không mang theo quốc thư nên 2 bên không thể có một cam kết chính thức nên xin được về Việt Nam trở lại kinh thành Huế để tâu lại vua.
Khi về đến Huế tâu bẩm tình hình của Hoa Kỳ và những việc mắt thấy tai nghe, vua Tự Đức đã bằng lòng cử ông làm chánh sứ và trao Bùi Viện quốc thư cho đầy đủ lề lối ngoại giao chính thức. Khi Có được thư uỷ nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần thứ hai. Năm 1875 ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ - Pháp hết thù địch nên tổng thống Mỹ đã khước từ sự cam kết giúp Việt Nam đánh Pháp
Ngày mồng 1 tháng 11 năm Tự Đức 31 (1878), ông đột ngột từ trần. https://nghiencuulichsu.com/2018/12/26/bui-vien-1839-1878-cuoc-cai-cach-hai-quan/
BÙI VIỆN NHÀ NGOẠI GIAO ĐẦU TIÊN CỦA VN ĐẾN MỸ
Bùi Viện (1839 - 1878), hiệu Mạnh Dực, là một nhà cải cách, nhà ngoại giao của Việt Nam cuối thế kỷ 19, làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
Khi về đến Huế tâu bẩm tình hình của Hoa Kỳ và những việc mắt thấy tai nghe, vua Tự Đức đã bằng lòng cử ông làm chánh sứ và trao Bùi Viện quốc thư cho đầy đủ lề lối ngoại giao chính thức. Khi Có được thư uỷ nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần thứ hai. Năm 1875 ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ - Pháp hết thù địch nên tổng thống Mỹ đã khước từ sự cam kết giúp Việt Nam đánh Pháp
Ngày mồng 1 tháng 11 năm Tự Đức 31 (1878), ông đột ngột từ trần. https://nghiencuulichsu.com/2018/12/26/bui-vien-1839-1878-cuoc-cai-cach-hai-quan/
NGƯỜI VN ĐẦU TIÊN CÓ BẰNG TS KHOA HỌC KHÔNG GIAN ĐẠI HỌC CLORADO - MỸ
Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh sinh ngày 3 tháng Giêng năm 1930 tại Yên Bái, Bắc Việt. Ông theo học Trường Võ Bị Không Quân Pháp ở Salon de Provence và tốt nghiệp sĩ quan với bằng phi công hai động cơ và bay phi cụ năm 1954. Ông được bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Không Quân Việt Nam tháng 10 năm 1957 và từ tháng 2 năm 1958 đến tháng 8 năm 1962 ông đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Không Quân. Năm 1965 ông là người đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ khoa học hàng không và không gian của Đại học Colorado.
Ông cũng đậu bằng tiến sĩ quốc gia toán học của Đại học Paris VI vào năm 1972. Từ năm 1968 ông dậy tại Đại học Michigan và được thăng cấp giáo sư thực thụ năm 1972.
Ông về hưu trí năm 1999 và được tặng tước vị "Professor Emeritus of Aerospace Engineering". Giáo sư Vinh là tác giả ba cuốn sách chuyên môn và hơn 100 bài khảo cứu về cơ học không gian và qũy đạo tối ưu. Qua những sự đóng góp chuyên môn của ông, giáo sư Vinh được bầu làm viện sĩ ngoại quốc của Hàn Lâm Viện Hàng Không và Không Gian Pháp (Académie Nationale de l’Air et de l’Espace) vào năm 1984 và viện sĩ chính thức của Hàn Lâm Viện Không Gian Quốc Tế (International Academy of Astronautics) vào năm 1986
NGƯỜI VIỆT ĐẦU TIÊN LÀM NGHỊ SĨ LIÊN BANG MỸ.
Joseph Cao Quang Ánh ,sinh ngày 13 tháng 3 năm 1967 là cựu dân biểu thuộc Đảng Cộng hòa đại diện cho khu bầu cử quốc hội số 2 của tiểu bang Louisiana trong Hạ viện Hoa Kỳ từ năm 2009 đến 2011. Ông đã đánh bại ứng cử viên Dân chủ đương nhiệm William J. Jefferson vào ngày 6 tháng 12 năm 2008 để trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên phục vụ trong Quốc hội Hoa Kỳ. Trước khi trở thành dân biểu, ông là một luật sư tại vùng New Orleans.
VIỆN TRƯỞNG GỐC VIỆT ĐẦU TIÊN TẠI ĐẠI HỌC HOA KỲ.
Ngày 1/7/2016, Đại Học Cộng Đồng Foothill chính thức có một viện trưởng người Mỹ gốc Việt, bà Nguyễn Thị Thúy.
Luật sư Nguyễn Thị Thúy đã vượt qua ba ứng viên khác để trở thành viện trưởng người Mỹ gốc Việt đầu tiên tại một trường đại học ở California nói riêng và trên toàn nước Mỹ nói chung.
TỚNG MỸ GỐC VIỆT ĐẦU TIÊN TRONG QUÂN ĐỘI HOA KỲ
Thiếu tướng Lương Xuân Việt, Tướng người Mỹ gốc Việt đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ , là Phó Tư lệnh hành quân tại Quân đoàn 8 của Mỹ ở Hàn Quốc, lên kế nhiệm Thiếu tướng James Pasquarette trong một buổi lễ chuyển giao quyền chỉ huy vào sáng hôm 28/8 tại Trại Zama.
Tướng Lương Xuân Việt sẽ chịu trách nhiệm về 2.500 binh sĩ, dân thường và người nhà của các binh sĩ trong toàn bộ 16 cơ sở ở Nhật Bản và đảo Okinawa. Ông hiện là Tư lệnh Lục quân Mỹ ở Nhật Bản.
Hậu duệ VNCH Lê Kim Anh 1.4.2020
Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh sinh ngày 3 tháng Giêng năm 1930 tại Yên Bái, Bắc Việt. Ông theo học Trường Võ Bị Không Quân Pháp ở Salon de Provence và tốt nghiệp sĩ quan với bằng phi công hai động cơ và bay phi cụ năm 1954. Ông được bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Không Quân Việt Nam tháng 10 năm 1957 và từ tháng 2 năm 1958 đến tháng 8 năm 1962 ông đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Không Quân. Năm 1965 ông là người đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ khoa học hàng không và không gian của Đại học Colorado.
Ông cũng đậu bằng tiến sĩ quốc gia toán học của Đại học Paris VI vào năm 1972. Từ năm 1968 ông dậy tại Đại học Michigan và được thăng cấp giáo sư thực thụ năm 1972.
Ông về hưu trí năm 1999 và được tặng tước vị "Professor Emeritus of Aerospace Engineering". Giáo sư Vinh là tác giả ba cuốn sách chuyên môn và hơn 100 bài khảo cứu về cơ học không gian và qũy đạo tối ưu. Qua những sự đóng góp chuyên môn của ông, giáo sư Vinh được bầu làm viện sĩ ngoại quốc của Hàn Lâm Viện Hàng Không và Không Gian Pháp (Académie Nationale de l’Air et de l’Espace) vào năm 1984 và viện sĩ chính thức của Hàn Lâm Viện Không Gian Quốc Tế (International Academy of Astronautics) vào năm 1986
PHI HÀNH GIA NGƯỜI MỸ GỐC VIỆT ĐẦU TIÊN ĐI VÀO KHÔNG GIAN.
Eugene H. Trịnh (Trịnh Hữu Châu), sinh 1950 tại Sài Gòn, Tiến sĩ vật lý ứng dụng Đại học Yale 1977, phi hành gia trên chuyến tàu con thoi Columbia 12 mang số STS-50, năm 1992, bay lên trạm không gian Skylab trong chuyến bay dài 13 ngày - dài nhất trong toàn bộ chương trình tàu con thoi.
Trịnh Hữu Châu học trung học tại Trường Michelet (Paris) và lấy bằng năm 1968. Sau đó, ông sang Mỹ học ngành chế tạo máy và vật lý ứng dụng tại Đại học Columbia, tốt nghiệp năm 1972. Trong hai năm liên tiếp 1974 và 1975, chàng trai Sài Gòn này nhận học bổng và bảo vệ thành công các luận án thạc sĩ khoa học và triết học. Châu tiếp tục học lên tiến sĩ và năm 1977 lấy được bằng vật lý ứng dụng của Đại học Yale lừng danh.
Năm 1979, NASA ngắm Eugene như là một tài năng hiếm thấy và ngay lập tức ông được mời vào làm việc tại phòng thí nghiệm về sức đẩy phản lực của NASA. Trong thời gian này, ông kết thúc khóa học sau tiến sĩ và tham gia các hoạt động nghiên cứu của Viện Kỹ thuật California dưới sự hỗ trợ của NASA
NGƯỜI VIỆT ĐẦU TIÊN LÀM NGHỊ SĨ LIÊN BANG MỸ.
Joseph Cao Quang Ánh ,sinh ngày 13 tháng 3 năm 1967 là cựu dân biểu thuộc Đảng Cộng hòa đại diện cho khu bầu cử quốc hội số 2 của tiểu bang Louisiana trong Hạ viện Hoa Kỳ từ năm 2009 đến 2011. Ông đã đánh bại ứng cử viên Dân chủ đương nhiệm William J. Jefferson vào ngày 6 tháng 12 năm 2008 để trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên phục vụ trong Quốc hội Hoa Kỳ. Trước khi trở thành dân biểu, ông là một luật sư tại vùng New Orleans.
Ngày 1/7/2016, Đại Học Cộng Đồng Foothill chính thức có một viện trưởng người Mỹ gốc Việt, bà Nguyễn Thị Thúy.
Luật sư Nguyễn Thị Thúy đã vượt qua ba ứng viên khác để trở thành viện trưởng người Mỹ gốc Việt đầu tiên tại một trường đại học ở California nói riêng và trên toàn nước Mỹ nói chung.
TỚNG MỸ GỐC VIỆT ĐẦU TIÊN TRONG QUÂN ĐỘI HOA KỲ
Tướng Lương Xuân Việt sẽ chịu trách nhiệm về 2.500 binh sĩ, dân thường và người nhà của các binh sĩ trong toàn bộ 16 cơ sở ở Nhật Bản và đảo Okinawa. Ông hiện là Tư lệnh Lục quân Mỹ ở Nhật Bản.
Ông Lương Xuân Việt trở thành tướng lãnh Mỹ gốc Việt đầu tiên sau khi nắm những vai trò chỉ huy từ cấp trung đội chiến đấu trở lên. Ông được vinh thăng chuẩn tướng vào Tháng Tám năm 2014, và được Thượng Viện Hoa Kỳ chấp thuận thăng cấp thiếu tướng vào Tháng Tư năm 2017.
Từ cấp Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 505, Lữ Đoàn 3, Sư Đoàn 82 Nhảy Dù, ông được triển khai tới Iraq từ năm 2005 đến 2006, và sau đó thăng cấp Đại Tá, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 3, Sư Đoàn 101 Nhảy Dù ở Afghanistan trong giai đoạn 2010-2011. Ông cũng từng là tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ đặc trách miền trung.
Trên đây là một số sưu tầm của Hậu Duệ VNCH, tuy chưa đầy đũ nhưng người đọc có chút khái niệm về những nhân người Việt đầu tiên đã đi vào lịch sử Hoa Kỳ. Hình ảnh và tài liệu lượm trên mạng và người viết ghi chú thêm ngày tháng.Hậu duệ VNCH Lê Kim Anh 1.4.2020
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen