Montag, 24. April 2017

TẢN MẠN VỀ KIẾM TÍN NGHĨA CỦA 
CHƯỞNG MÔN ĐỜI III TRẦN HUY PHONG

Trước tiên tôi xin đính chính về cái tên gọi "Tín Nghĩa" mà tôi đã đặt cho cặp kiếm này, không phải là tên thật sự của cặp kiếm mà cố võ sư chưởng môn Vovinam Việt Võ Đạo Trần Huy Phong đã sử dụng trong lúc sinh thời, cho tới nay người viết cũng chưa hân hạnh được biết cái tên gọi của cặp kiếm này là tên gì? May ra trong gia đình của võ sư Trần huy Phong mới biết. Người võ sư đang bảo quản cặp kiếm này là võ sư Vũ Kim Trọng cũng chưa lần nào tiết lộ tên của cặp kiếm này gì với người viết? Thế nên trong khi viết bài này tôi tạm cho nó cái tên là " Tín Nghĩa" dựa trên Việt Võ Đạo Tính, VVĐ Tình mà cố chưởng môn đời III đã để lại trong từng trái tim từ ái của những môn sinh đã theo học với thầy.

Không như những thanh kiếm Việt nổi tiếng được tương truyền trong lich sử VN, thanh " Thuận Thiên Kiếm " Thuận Thiên, có nghĩa là hợp lòng trời. Ý nghĩa của nó là khẳng định cuộc khởi nghĩa chống nhà Minh của vua Lê Thái Tổ (Lê-Lợi) là hợp với lòng trời.
Hay Thanh Kiếm Thái A của Vua Gia Long. Thái A Kiếm, tên nầy không phải ngẫu nhiên mà có. Trong hai cuốn Từ điển Từ ngữ Điển cố Văn học và Từ ngữ Văn Nôm) có sự tích nầy : "Lúc nhà Tần chưa diệt được Ngô, Trương Hoa xem thiên văn thường thấy giữa sao Đẩu và sao Ngưu có luồng khí máu đỏ tía, các đao thuật đều nói đó là điềm báo nước Ngô đang buổi cường thịnh, chưa đánh được. Riêng Trương Hoa cho lời nói đó không đúng. Đến khi đánh lấy được Ngô rồi, luồng khí lại mạnh và sáng hơn. Trương Hoa mới đem chuyện hỏi Lôi Hoán, người giỏi về thiên văn thuật số. Lôi Hoán cùng Trương Hoa lên lầu cao quan sát một hồi lâu. Lôi Hoán nói : "Chỉ giữa sao Đẩu và sao Ngưu là có luồng khí lạ đó. Ấy là cái tinh của bảo kiếm ở Phong Thành xông lên tận trời đấy". Trương Hoa nói : "Quả vậy, nay tôi muốn phiền anh ra làm quan lệnh ở đất ấy rồi ra công tìm gươm báu cho". Lôi Hoán nhận lời. Ông đến Phong Thành, cho đào nền nhà ngục, thì tìm ra được một cái hòm đá nằm sâu dưới lòng đất hơn bốn trượng. Khi sáng lóe ra, bên trong có hai thanh gươm, một thanh có khắc chữ "Long Tuyền", và một thanh khác chữ "Thái A". Đêm hôm đó không thấy luồng khí lạ ở giữa sao Đẩu và sao Ngưu nữa". 
Kinh luân đã tỏ tài cao, 
Thớ co rễ quánh thủ dao Long Tuyền
Cặp kiếm do thầy chưởng môn Trần Huy Phong sữ dụng trước khi qua đời nó không qúi giá như các loại kiếm của các vua chúa hay dùng để đại diện cho một vường quyền, nhưng cặp kiếm của thầy Phong là một cặp kiếm rất gía trị rất cao về tính nhân bản gói ghém có trong 10 điều tâm niệm của VVN-VVĐ, nó còn mang đầy đũ ý nghĩa của một Việt Võ Đạo Sinh luôn đi đầu trong côngviệc "Cách Mạng tâm Thân". Trong làng võ, khi nào người chưởng môn trao kiếm lại cho môn đệ của mình điều đó đồng nghĩa là trao lại lòng tin tuyệt đối vào thế hệ đi sau, thế nên tôi gọi đó là kiếm "Tín Nghĩa". Điều quan trọng là kiếm "Tín Nghĩa" không được trao vào tay những môn đệ bất nghĩa. Thế nên cặp kiếm này không hiện diện ở tổ đường VVN-VVĐ trong nước. Lý do: Tổ đường ngày nay không còn là nơi mang ý nghĩa thiêng liêng của môn phái VV chính thống như thời thầy chưởng môn Lê Sáng và Trần Huy Phong còn sống.
Tổ đường ngày nay ở VN chỉ là nơi đã bị những đứa con bất nghĩa của môn phái tạm chiếm trong thời võ nạn cũa Vovinam. Chúng đang dùng hình ảnh và hài cốt của sáng tổ và chưởng môn Lê Sáng để thực hiện chính sách Hoà Giải Hoà Hợp theo nghị quyết 36 của Trung ương đảng cs đề ra.
Tổ đường ngày nay chỉ để làm bình phong cho các mưu đồ đen tối về chính trị. Nhận thấy điều đó nên gia đình thầy Trần Huy Phong đã không gởi hài cốt của chưởng môn THP nơi đây, để thầy không phải chứng kiến những môn sinh phản môn bất tín đi trái với tinh thần Cách Mạng Tâm Thân, mà thầy đã dày công truyền lại cho các thế hệ đi sau. Căn cứ vào những lý do như thế, nên "Tín Nghĩa kiếm" tượng trưng cho tinh thần uy vũ bất năng khuất của chưởng môn đời III, không thể nào mà gia đình thầy THP có thể tín nhiệm để giao lại cho những môn sinh bất tín bảo quản, khi gia đình thầy THP không có mặt ở VN. Tín Nghĩa kiếm" được coi như một tín vật hàm chứa những đức tính căn bản có ghi trong 10 điều tâm niệm để định hướng cho một Việt Võ Đạo Sinh chính thống, những người đã được thầy Trần Huy Phong đào tạo bằng tâm huyết của một chính nhân.
Trọn đời trọng nghĩa khinh tài
Thế gian nầy dể mấy ai như thầy 
(Vs Vũ Kim Trọng)
"Tín Nghĩa kiếm" thể hiện được tinh thần cống hiến trọn đời và tuyệt đối trung thành với môn phái, một tinh thần mang nặng tình nghĩa sư môn...ân tình huynh đệ vẹn toàn. Thật vậy Vs Trần Huy Phong khi còn sinh thời. thầy đã luôn coi trọng truyền thống nhân bản của cha ông để lại về Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Thầy là một bậc tôn sư đạt được đỉnh cao của Võ Đức và Võ Thuật. Vs THP là một bậc võ học uyêm thâm có đầy đũ uy tín lẩn năng lực lãnh đạo môn phái kế thừa sự nghiệp của Vs sáng tổ và Vs Lê Sáng để lèo lái con thuyền VVN-VVD trong cơn võ nạn ra khơi. Tinh thần "Trần Huy Phong" trọng nghĩa khinh tài đã làm cãm mến không biết bao nhiều là đồng môn. Vs THP khi còn sinh thời là một con người văn võ song toàn, sống giản dị, trong sạch hài hoà với các đồng môn, bênh vực kẻ yếu đúng theo phong cách của một con người võ sĩ đạo. Tiếc thay sự nghiệp thiên đô và chấn hưng môn phái chưa hoàn thành thì thầy đã ra đi vào ngày 13.12.1997 tại Sài Gòn sau 3 năm lâm trọng bịnh. Thầy đã để lại nhiều công trình xây dựng môn phái cũng như những luồn tư tưởng mới trong sinh hoạt của môn phái VVN-VVĐ trong thơì gian thầy còn sống, gia tài thầy để lại quá to tát, mà người viết rất kính phục và trân trọng như một bậc thầy , một nhân cách lớn của môn phái VVN-VVĐ chúng ta.
Ý NGHĨA VÀ CÔNG DỤNG CỦA KIẾM
Trở lại kiếm là một vũ khí được sử dụng trong thời trung cổ cho đến thời cận đại, để tự vệ được dùng rộng rải trong quân đội trên khắp thế giới từ Á sang Âu, cho đến khi súng ra đời. 
Kiếm là vũ khí để tự vệ hay cướp lấy sinh mạng của người khác hoặc còn mang ý nghĩa cứu khổn (khó-kkốn)) phò nguy ..Ngày nay ở VN, kiếm chĩ còn thấy sử dụng trong thể thao hay văn nghệ bộ môn phim kịch. Kiếm mang những ý nghĩa sau: 
 1) – Biểu-tượng Quyền-hành trong Quốc-gia ; đó là Thượng Phương Bảo Kiếm mà Vua ban cho Quan Đại-Thần được phép « Tiền Trảm Hậu Tấu ».
2) – Biểu-tượng Tước-vị trong Triều-đình ; đó là tùy theo Phẩm-bậc, mà Kiếm và Võ Kiếm đuợc cẩn nạm khác nhau về đá quí và bạc vàng.
3) – Biểu-tượng Giai-cấp trong Xả-hội ; đó là Kiếm của thế-gia Hoc-sĩ.
4) – Biểu-tượng Huyền-năng trong Pháp-thuật; đó là những thanh Kiếm của Đạo-Gia có khả năng trừ Ma giết Quỉ, tàng-hình, cách-không trảm-thủ.
5) - Tín Vật bảo môn trong làng võ mà người chưởng môn đi trước dùng để làm vật chính danh của chức vụ chưởng môn truyền cho các đời chưởng môn kế tiếp.
6)-Trong quân đội VNCH kiếm cung dùng để thể hiện cho chí làm trai tang bồng hồ thỉ và kiếm được trao cho người thủ khoa của khoá trong ngày lễ ra trường của Võ Bị Đà Lạt, Trường Bộ Binh Thủ Đức hay các trường đào tạo sĩ quan khác.

Kiếm còn là vật để thể hiện những đức tính căn bản cầu yếu của một võ sĩ đạo, đó là:
1.Công bằng chính trực: bênh vực những kẻ cô thế, tôn trọng lẽ phải, công bằng. 
2.Tư cách cao thượng: giữ mình ở bên trên những hận thù nhỏ nhen. 
3.Trí tuệ minh mẫn: nhận định được lẽ phải và sự tốt đẹp ở đời. 
4.Trung tín: luôn luôn có lòng trung thành với mục tiêu cao cả, với đạo lý và giữ chữ tín ở đời.

Ý NGHĨA VỀ CỤM TỪ " TÍN NGHĨA"
Để mở rộng ý nghĩa của cụm từ Tín Nghĩa" trong môn phái VVN-VVĐ thì tôi xin phép lướt qua về các khái niệm của nó. Nhìn lại mục tiêu đào tạo của Vovinam chính thống. Tôi dùng chử VVN Chính thống là để phân biệt với VVV Quốc Doanh do nhà nước cộng sản điều hành hiện nay qua trung gian của Hội Đồng Võ Sư Chưởng Quản Môn PHái ( HĐVSCQMP) là xây dựng thế hệ thanh niên Việt Võ Ðạo ( điều tâm niệm số 2), không phải đào tạo những cái máy chỉ biết đấm và đá theo nhu cầu của gìới lãnh đạo VVN. Đối với các thành phần này, thì không nên bàn đến cụm từ "tín nghĩa" cho mất thời giờ, vì đó là những thành phần có trái tim từ ái bên tay mặt.
Đối với người Nhật, một Samurai khi mang thanh kiếm bên mình, thi kiếm được xem như là một tài sản quý giá nhất, thậm chícòn được coi là một phần cơ thể của họ. Vào thời trung cổ và cận trung, Samurai chỉ để gọi tên một số người, như một đẳng cấp cao quý. Người ta cho rằng Kamakura là thời đại nổi tiếng về lòng trung thành, ý chí quật cường, sự liêm khiết và lòng sùng bái tinh thần thượng võ của các võ sỹ cũng như cư dân xứ sở Anh đào
TÍN
Chữ tín là bằng hữu của uy tín, thủy chung trước sau như một, không thay lòng đổi dạ, dù hứa hẹn một việc nhỏ cũng chẳng sai lời, mới gọi là người biết giữ uy tín. Chữ tín không thay đổi dù cho đứng trước một nghịch cảnh như những ngày đen tối sau 1975 mà trái tim từ ái không chao đảo, không đập sai nhịp. Tín là thành tín một trong những đức tính tốt có trong Việt Đạo một đạo lý cơ bản nhất của Việt Võ Đạo. VVN- VVĐ có vươn danh trong thiên hạ hay không cũng nhờ vào chử tín với các môn phái khác đang hiện diện chung quanh mình, mà người xưa đã từng làm được tại miền nam VN. Tạo ra một cuộc sống chung hài hòa trong làng võ VN. Còn ngày nay VVN đã bị nhục nhã khắp nơi khi vươn danh VVN thành "Quốc Võ", đó là một quan điểm sai lầm của các bộ óc bã đậu trong hàng ngũ lãnh đạo quốc doanh ngày nay. Tự mình đạp chân mình khi không tôn trọng ngay chính 10 điều tâm niệm của môn phái, đã vi phạm điều số 5 "Việt Võ Đạo sinh tôn trọng các võ phái khác" Hành động tôn vinh VVN lên thanh Quốc Võ là một điều mà những người môn sinh VVN chân chính không bao giờ chấp nhận được.
Chũ tín trong cuộc sống hàng ngày rất quan trọng, dù thời xưa hay thời nay thì sống ở đời mọi người cũng cần có một uy tín nhất định trong quan hệ với mọi người xung quanh. Thời xưa cái uy tín với bạn bè luôn được đánh giá cao, uy tín đó sẽ gây dựng được lòng tin, mọi người tin tưởng sẽ dễ dàng được mọi người giúp đỡ trong cuộc sống. Nói thì phải làm, sống trung thực với mọi người, với bản thân.

Ngày nay cũng vậy cho dù anh có tài nhưng không có được uy tín thì cũng chẳng được ai tôn trọng, muốn được người khác giúp đỡ thì bản thân mình phải giữ được lòng tin trước mọi người, chưa nói đến trong quan hệ xã hội, trong quan hệ giửa người và người. chữ tín cái uy tín trong công việc luôn đặt lên hàng đầu, quyết định đến sự thành công. Trong môn phái chử tín ngày xưa rất được coi trọng, trước khi bị văn hoá Marx- Mao và tư tưởng Hồ Chí Minh tàn phá toàn bộ nền văn hoá truyền thống của Việt tộc kể từ sau tháng tư 1975. Chử tín gần như biến mất trong hầu hết các võ đường Vovinam do các cán bộ cộng sản lãnh đạo. Chử tín của nền văn hoá nhân bản theo truyền thống Văn Lang, Lạc Việt đã tan biến hết trong các trái tim từ ái của những môn sinh sau này.
Nói chung, Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín trong Việt Đạo luôn có sự gắn kết với nhau, để trở thành một Việt Võ Đạo Sinh chính thống cần phải có đầy đũ những đức tính này, thiếu đi một cũng không được. Như bài thơ sau:
Người không có Nhân thì sẽ thành kẻ độc ác.
Người không có Nghĩa thì sẽ thành kẻ bội bạc.
Người không có Lễ thì sẽ thành kẻ vô phép.
Người không có Trí thì sẽ thành kẻ ngu ngốc.
Người không có Tín thì sẽ thành kẻ giả dối.

Tín nghĩa là gốc làm người, là nền tảng cho một Việt Võ Đạo Sinh, giữ chữ tín để lưu tiếng thơm với đời và các thế hệ đi sau.
Trong nền văn hoá nhân bản truyền thống của tổ tiên VN, người xưa vô cùng coi trọng chữ tín. Họ giảng rằng, lời nói ra phải có sự tin tưởng tuyệt đối. Một khi đã phụ tín nghĩa, người ta cảm thấy những năm tháng cuộc đời về sau là không còn ý nghĩa gì nữa.
Khổng Tử nói: “Vô tín nhi bất lập”, ý nói rằng người mà không giữ chữ tín thì không có chỗ sinh tồn, chỗ đứng trên thế gian này. Cũng có người nói, chữ tín là sinh mệnh thứ hai của con người. Câu nói này thực ra rất có đạo lý và còn nguyên gía trị về tinh thần cao cã của một võ sĩ đạo.
NGHĨA
Chữ nghĩa bao hàm những ý nghĩa rất lớn. Như là nghĩa cha con, nghĩa thầy trò, (nghĩa đồng môn, đồng đạo...), nghĩa chồng vợ, nghĩa anh em cốt nhục đồng-bào, nghĩa bằng hữu chi giao, ấy là ngũ-luân chi đạo. Mọi sự đều phải có nghĩa, thì mới đủ tư-cách làm một Việt Võ Đạo Sinh chính thống.
Chữ nhân và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau, cho nên trong Kinh Sám Hối có 4 câu dạy rằng:
Làm người nhân-nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long-đong chẳng sờn.
Làm người nhân-nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa.

Và trong môn phái chúng ta có nêu ra những điều tâm niệm số 6,7 và 10 để vun trồng chử tín nghĩa
6.Việt Võ Đạo sinh chuyên cần học tập, rèn luyện tinh thần, trau dồi đạo hạnh. 
7.Việt Võ Đạo sinh sống trong sạch, giản dị, trung thực, và cao thượng. 
10.Việt Võ Đạo sinh tự tín, tự thắng, khiêm cung, độ lượng, luôn luôn kiểm điểm để tiến bộ.
Nghĩa ở đây thể hiện vai trò, trách nhiệm của con người với người, giữa người với đời, với xã hội hiện tại, người môn sinh với đồng môn của mình. Sống ở đời cần có một trách nhiệm với đời, cũng chính vì vậy mà cần có nghĩa, sống có trách nhiệm với quê hương đất nước, với gia đình, với anh em bằng hữu cũng là nghĩa. Biết trả ơn khi mình đã nhận được những điều may mắn trong cuộc sống – đó cũng là nghĩa. Tại sao có nhiều người luôn biết quan tâm giúp đỡ mọi người trong xã hội, làm từ thiện tri ân với đời… cũng vì họ sống có nghĩa với đời, với cuộc sống hiện tại, họ biết cho khi đã nhận. Nghĩa cũng là sống cho mọi người chứ không chỉ sống cho riêng cá nhân mình. Chử nghĩa đó chúng ta thường thấy nơi thầy THP thể hiện hàng ngày với các môn đệ và đồng môn của mình trong các sinh hoạt hàng ngày nơi võ đường hay trong cuộc sống ngoài xã hội.
CÂU CHUYỆN VỀ BA THANH "ĐAO KIẾM TÍN NGHĨA"
Biết trọng chữ tín, là đã giữ chữ tín nơi chính bản thân mình. Điều này phù hợp với đạo đức ông cha thường răn dạy con cháu: phải biết trọng mình thì mình mới được người khác trọng. Ít nhất phải trọng đức tín của mình, giữ đức tín cho mình, không làm điều gì trái với sự tín trung thì mới được người khác trọng.
Ông cha ta còn dạy: “Nhân vô tín bất lập”, người không biết trọng đức tín nơi mình thì không làm được việc gì ra hồn cả. Ông bà ta đã từng nói :
“Ai ơi! chớ nghĩ mình hèn
Nước kia dù đục lóng phèn cũng trong”.
Ở một câu ca dao khác, ông bà ta còn dạy thêm :
“Ai ơi! giữ chí cho bền
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai
Đừng làm, đừng nói đơn sai
Tin mình đừng sợ những lời dèm pha…”

Tin vào mình không phải là tin vào bộ võ phục hay đai đẳng đang đeo, tin vào người thầy minh đang theo học, mà phải tin vào võ đức mà mình đã tích lũy, . Tin vào mình là tin vào đức hạnh của mình, tin vào bản năng sống của mình, tin điều mà có thể giúp mình cống hiến cho đời, cho dồng môn và môn phái. Hãy nghe ông bà ta khuyên :
“Ai lên Hương Tích cảnh thiền
Dừng chân chiêm bái tôi khuyên đôi lời
Hãy tin tiềm lực con người
Đừng trông đừng đợi xa vời ngoài ta
Cũng đừng học thói kiêu sa
Khiêm cung cẩn trọng mới là chính tâm”.

Quả vậy, tâm mới là gốc rễ của sức mạnh niềm tin của một người lãnh đạo môn phái Voviam Việt Võ Đạo. Nếu như không có thì hãy dừng lại và quay về rèn luyện tâm thân trước khi trau dồi tiếp võ thuật. Một trái tim từ ái đúng đắn, là trái tim chứa đựng bản chất tín trung – tín thành và tín nghĩa của mình, từ đó sẽ gieo được niềm tin cho các đồng môn khác. Tin vào chính mình là nền tảng để có thể tin vào người khác. Nhiều nhà tâm lý đã khuyên điều mà câu ca dao trên đã bộc bạch: "tự ái và thiếu tự tin là hai thủ phạm đánh cắp niềm tin của ta dành cho người khác" Như thế hãy tin vào mình và khiêm cung cẩn trọng để có thể tin vào người khác.
KẾT LUẬN:
Ông cha ta đã dạy: “Tín giả nhân nhập”, câu này có nghĩa là người có đức tín nghĩa sẽ được nhiều người theo. Thầy Nguyễn Lộc, Thầy Lê Sáng , Thầy Trần Huy Phong là những biểu tượng của đức tin, các vị này đã làm cho các môn sinh trong môn phái có niềm tin vững mạnh vào tương lai tượi đẹp, khi bước vào võ đường Vovinam. Người có tín nghĩa là người tốt, biết trọng lời hứa, biết giữ nghĩa tình, người như vậy ai lại không trọng nể. Tấm gương của những vị trên cho chúng ta thấy , họ đã kết chặt được vòng dây thân ái giửa các đồng môn với nhau.
Tuy nhiên, cuộc sống hôm nay đang tuy cùng sinh hoạt chung trong cùng một môn phái, nhưng trái tim từ ái của mổi một môn sinh không đập chung một nhịp, phần lớn những môn sinh khi bước vào sinh hoạt với môn phái Vovinam, đều chịu ảnh hưỡng của một loại tư tưởng đi ngược với truyền thống nhân bản của cha ông, đó là tư tưởng Hồ chí minh, do đó thường lầm lạc về tính phục vụ dân tộc và nhân loại của Vovinam, những người môn sinh này đang phục vụ cho nhóm quyền lực chính trị thiểu số trong cộng đồng dân tộc. Người môn sinh chỉ biết tranh thủ, tích góp, lượm nhặt thật nhiều quyền lợi cho riêng bản thân. Có những môn sinh đã dùng những thủ đoạn, kể cả lừa gạt, ám hại, để hành xử với nhau. Những người ấy là những kẻ thất tín, chắc chắn sẽ chẳng có ai tín phục và tin dùng. Tổ tiên ta đã từng nói :
“Những người hữu thủy vô chung
Là người tệ bạc tin dùng mà chi”.
Những môn sinh yêu môn phái, yêu nước, yêu dân tộc cần hiễu được ý nghĩa câu chuyện về ba thanh đao kiếm tín nghĩa mà danh sư đi trước truyền lại cho người đi sau. Nó mang ý nghĩa như là một sự gửi thác một trọng nhiệm trong việc chấn hưng môn phái trong hoàn cảnh hiện nay. Ba thanh kiếm tín nghĩa nó không phải là những bảo kiếm có gía trị trên thị trường thương mại, nhưng gía trị nó vô gía về truyền thống. Nói lên được. Trong môn phái kiếm của chưởng môn chỉ trao lại cho người kế tục như là một sự liên tục về sự trường tồn của môn phắi. Trong quân đội, người thủ khoá mới nhận được kiếm ủy thác của quân đội để bảo vệ tổ quốc và dân tộc. Trong môn phái người nhận được kiếm từ người đi trước cũng chỉ có một người xuất sắc nhất trong hàng ngũ môn đồ của mình coi như đã nhận kế thừa hoài bảo của của thầy Trần Huy Phong và danh sư Trịnh Ngọc Minh đã trao phó. Và như trên đã nói, ngày hôm nay trước cuộc chính biến tháng 4 năm 1975. Vovinam trong nước đã bị những phản đồ đem dâng môn phái cho bầy qủi đỏ tà quyền csVN, chúng tiếp tay với quỷ đỏ thao túng và đưa môn phái bước sang một hướng khác, là bảo vệ cho đảng csVN và trung thành với kẻ thù dân tộc là Trung Cộng.
Họ là những môn đồ không xứng để nhận được thế chính danh được truyền lại từ nhhững danh sư đi trước. Đám người này chỉ chiếm được tổ đường, nơi thờ phượng của môn phái, nhưng họ hoàn toàn mất đi tính chính danh để điều hành môn phái. Giống như Hồ chí Minh, dùng vũ lực chiếm lấy một VN đã được độc lập từ chính phủ Trần Trọng Kim. Thế nên khi HCM và nước VNDCCH ngay từ bước đầu lập quốc đã không nhận được sự công nhận của các quốc gia trên thế giới, từ năm 1945 đến năm 1950. Sau đó mới được vài nước trong khối XHCN công nhận. Khác với VNDCCH, miền nam VN dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống NGô đình Diệm ngay từ khi lập quốc trong năm 1955 sau một cuộc trưng cầu dân ý, đã được 35 quốc gia lần lượt công nhận tính chính danh của nó.
Thế mới nói, HĐVSCQMP và HĐVSTTHN, chỉ là những con cờ tay sai của đảng csVN trong việc quốc doanh Vovinam, đưa VVN vào qủi đạo của đảng csVN. Nguyễn văn Chiếu và đám tà lọt chung quanh, tuy có được tổ đường để rao giảng chiêu bài chính nghĩa giả tạo, nhưng không mang được tính chính thống từ các bậc tiền nhân trao phó. Các vị tiền nhân luôn đũ sáng suốt để trao lại những báu vật về Tín Nghĩa. Người vinh dự nhận được sự ủy thác đó từ Chưởng Môn đời III Trần Huy Phong vằ danh sư Trịnh Ngọc Minh chính là võ sư bạch đai niên trưởng Vũ Kim Trọng, thuộc Tổng Liên Đoàn VVN-VVĐ Thế Gìới.
Thưa qúi đồng môn,
Chính khí, chính nghĩa không bao giờ tụ nơi người bất tín bất nghĩa trong môn phái. Nhìn 3 thanh đao kiếm tín nghĩa để thấy vật ở đâu thì nơi đó sẽ tỏa rạng được hào quang chính tín, chính nghĩa và chính danh của môn phái Vovinam -Việt Võ Đạo chính thống. Viết để vinh danh "Tinh Thần Trần Huy Phong" và để tưởng nhớ đến đến cố võ sư sáng lập của võ đường trường Trung Học Kỹ Thuật Cao THáng 1966.
Cựu môn sinh Vũ Thái An, 24.4.2017

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen

  VIỆC TÀU BUÔN TRUNG QUỐC CẮT CÁP NGẦM TRÊN BIỂN OSTSEE - CÓ THỂ CÓ MẬT VỤ NGA ĐỨNG PHÍA SAU ? Theo Focus online:   Các tàu chiến châu Âu đ...